Tên lệnh là bắt buộc, phải là từ đầu tiên trong bất kỳ lệnh nào, phải được gõ đúng như khi mô tả lệnh.
Tên khái niệm được nằm trong cặp dấu ngoặc quan hệ (< và >) biểu thị cho một lớp đối tượng và là tham số bắt buộc phải có. Khi gõ lệnh thì tên khái niệm (có thể được coi là “tham số hình thức”) phải được thay thế bằng một từ (thường là tên file, tên thư mục và có thể được coi là “tham số thực sự”) để chỉ đối tượng liên quan đến thao tác của lệnh.
Ví dụ, mô tả cú pháp của lệnh more xem nội dung file là:
# more
thì từ more là tên lệnh, còn
Để xem nội dung file có tên là temp, người dùng gõ lệnh:
# more temp
Như vậy, tên lệnh more được gõ đúng như mô tả cú pháp (cả nội dung và vị trí) còn “file” đã được thay thế bằng từ “temp” là tên file mà người dùng muốn xem nội dung.
Các bộ phận nằm giữa cặp dấu ngoặc vuông [ và ] là có thể gõ hoặc không gõ cũng được.
Ví dụ, cú pháp của lệnh halt là
# halt [tùy-chọn]
Với các tùy chọn -w, -n, -d, -f, -i và mỗi tùy chọn cho một cách thức hoạt động khác nhau của lệnh halt. Lệnh halt có tác động chính là làm ngừng hoạt động của hệ điều hành, tuy nhiên khi người dùng muốn có một cách hoạt động nào đó của lệnh này thì sẽ chọn một (hoặc một số) tùy chọn lệnh tương ứng. Một số cách gõ lệnh halt của người dùng như sau đây là đúng cú pháp:
# halt
# halt -w
# halt -n
# halt -f
Các giá trị có trong cặp l và l trong đó các bộ phận cách nhau bằng dấu sổ đứng “l” cho biết cần chọn một và chỉ một trong các giá trị nằm giữa hai dấu ngoặc đó.
Ví dụ, khi giới thiệu về tùy chọn lệnh của lệnh tail xem phần cuối nội dung của file, chúng ta thấy:
-f, --follow[={tên l đặc tả}]
Như vậy, sau tham số khóa –follow, nếu xuất hiện thêm dấu bằng “=” thì phải có hoặc tên hoặc đặc tả. Đây là trường hợp các chọn lựa “loại trừ nhau”.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: