Scrum là một tập hợp con của Agile và là một trong những khung quy trình phổ biến nhất để triển khai Agile. Đây là một mô hình phát triển phần mềm lặp đi lặp lại được sử dụng để quản lý phát triển phần mềm và sản phẩm phức tạp. Các lần lặp lại có độ dài cố định, được gọi là sprint kéo dài từ một đến hai tuần, cho phép nhóm vận chuyển phần mềm trên một nhịp điệu thông thường. Vào cuối mỗi lần chạy nước rút, các bên liên quan và các thành viên trong nhóm họp để lên kế hoạch cho các bước tiếp theo.
Có ba vai trò cụ thể trong Scrum:
Product Owner Chủ sở hữu sản phẩm tập trung vào các yêu cầu kinh doanh và thị trường, ưu tiên tất cả các công việc cần phải làm. Người đó xây dựng và quản lý tồn đọng, cung cấp hướng dẫn về các tính năng nào để vận chuyển tiếp theo và tương tác với nhóm và các bên liên quan khác để đảm bảo mọi người hiểu các mặt hàng trong sản phẩm tồn đọng. Chủ sở hữu sản phẩm không phải là người quản lý dự án. Thay vì quản lý tình trạng và tiến bộ, công việc của họ là thúc đẩy nhóm với một mục tiêu và tầm nhìn.
Scrum Master: Thường được coi là huấn luyện viên cho nhóm, Scrum Master giúp nhóm làm tốt nhất công việc có thể. Điều này có nghĩa là tổ chức các cuộc họp, đối phó với các rào cản và thách thức và làm việc với Chủ sở hữu sản phẩm để đảm bảo sản phẩm tồn đọng đã sẵn sàng cho sprint tiếp theo. Scrum Master cũng đảm bảo rằng nhóm tuân theo quy trình Scrum. Anh ấy hoặc cô ấy không có thẩm quyền đối với các thành viên trong nhóm, nhưng anh ấy hoặc cô ấy có thẩm quyền đối với quá trình này. Ví dụ, Scrum Master không thể nói cho ai đó biết phải làm gì, nhưng có thể đề xuất một nhịp chạy nước rút mới.
Các nhóm làm việc tại scrum: The Scrum Team bao gồm năm đến bảy thành viên. Mọi người trong dự án làm việc cùng nhau, giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ một cảm giác sâu sắc về tình bạn. Không giống như các nhóm phát triển truyền thống, không có vai trò riêng biệt như lập trình viên, nhà thiết kế hoặc người thử nghiệm. Mọi người cùng nhau hoàn thành công việc. Nhóm Scrum sở hữu kế hoạch cho mỗi sprint; họ dự đoán họ có thể hoàn thành bao nhiêu công việc trong mỗi lần lặp lại.
Product Backlog: Chủ sở hữu sản phẩm (The Product Owner) và nhóm Scrum (Scrum team) họp để sắp xếp thứ tự ưu tiên các hạng mục trên product backlog (công việc trên product backlog bắt nguồn từ các câu chuyện và yêu cầu của người dùng). Product backlog không phải là danh sách những thứ cần hoàn thành, mà nó là danh sách tất cả các tính năng mong muốn của sản phẩm. Nhóm phát triển sau đó kéo công việc từ sản phẩm tồn đọng để hoàn thành trong mỗi sprint.
Sprint: 1 giai đoạn của dự án với thời gian cố định. Độ dài của 1 sprint sẽ được team và PO quyết định. Thông thường là từ 1 - 4 tuần.
Sprint Backlog: là danh sách các chức năng được phát triển cho Sprint; nó được xác định bởi cuộc họp Lập kế hoạch Sprint. Sprint Backlog là chức năng được lựa chọn từ Product Backlog dựa trên mức độ ưu tiên và khả năng phát triển của nhóm.
Estimation: Trong quy trình SCRUM, các thành viên của nhóm nhiệm vụ sẽ do chính bạn lựa chọn và ước tính thời gian phát triển dự kiến và chịu trách nhiệm về ước tính này. Sau khi hoàn thành bảng sẽ cập nhật Sprint Backlog.
Planning poker: quân bài ghi các con số để cho điểm đánh giá các tính năng trong 1 sprint
Velocity (Burndown chart ): biểu đồ thể hiện kết quả mà team đã làm được trong 1 sprint.
Product backlog: Product Backlog là danh sách các chức năng cần được phát triển của sản phẩm. Danh sách này do Product Owner quyết định. Nó thường xuyên được cập nhật để đáp ứng được nhu cầu thay đổi của khách hàng cũng như các điều kiện của dự án.
Sprint planning: Như chúng ta đã biết ở trên Sprint là một giai đoạn phát triển có thời gian từ 2-4 tuần. Để chuẩn bị cho mỗi Sprint team cần phải họp để xác định những chức năng nào (story) sẽ phát triển trong giai đoạn này (sprint backlog), kết quả đầu ra dự kiến (Goal, kết quả Release), Estimate (ước lượng ai làm việc gì) và thảo luận các giải pháp. Tất cả được ghi thành biên bản để có cơ sở thực hiện và Review sau này.
Backlog refinement/grooming: Vào cuối một sprint, nhóm phát triển và PO phải đảm bảo backlog đã sẵn sàng cho sprint tiếp theo. Nhóm có thể loại bỏ các chức năng không liên quan, tạo vấn đề mới, đánh giá lại mức độ ưu tiên của các vấn đề hoặc chia nhỏ các yêu cầu của người dùng thành các tác vụ nhỏ hơn. Mục đích của cuộc họp này là đảm bảo việc tồn đọng chỉ chứa các mục có liên quan, chi tiết, và đáp ứng các mục tiêu của dự án.
Daily Scrum meetings: là một cuộc họp đứng lên 15 phút, nơi mỗi thành viên trong nhóm nói về mục tiêu của họ và bất kỳ vấn đề nào nảy sinh. cuộc họp diễn ra mỗi ngày trong Sprint, giúp dễ dàng theo dỗi các công việc đang thực hiện , chưa thực hiện hay sắp thực hiện.Thường cuộc họp này mỗi người sẽ phải tự trả lời 3 câu hỏi: Hôm qua đã làm những gì ? Có gặp khó khăn gì không? Hôm nay sẽ làm gì ?
Sprint review meeting: Vào cuối mỗi Sprint, nhóm trình bày công việc họ đã hoàn thành tại cuộc họp đánh giá. Cuộc họp này phải trình bày trực tiếp, không thông qua báo cáo hay bản trình bày PowerPoint.
Sprint retrospective meeting: Vào cuối mỗi Sprint, nhóm nghiên cứu phản ánh mức độ làm việc với nhau và thảo luận về bất kỳ thay đổi nào cần được thực hiện trong Sprint tiếp theo. Nhóm có thể nói về những gì diễn ra tốt đẹp trong thời gian Sprint vừa qua , điều gì đã xảy ra và những gì họ có thể làm khác đi.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: