Shell trong Linux.
Người dùng mong muốn máy tính thực hiện một công việc nào đó thì cần gõ lệnh thể hiện yêu cầu của mình để hệ thống đáp ứng yêu cầu đó. Shell là bộ dịch lệnh và hoạt động như một kết nối trung gian giữa nhân với người dùng: Shell nhận dòng lệnh do người dùng đưa vào và từ dòng lệnh nói trên, nhân tách ra các bộ phận để nhận được một hay một số lệnh tương ứng với các đoạn văn bản có trong dòng lệnh.
Một lệnh bao gồm tên lệnh và tham số: Từ đầu tiên là tên lệnh, các từ tiếp theo (nếu có) là các tham số. tiếp theo Shell sử dụng nhân để khởi sinh một quá trình mới (khởi tạo quá trình) và sau đó, Shell chờ đợi quá trình con này tiến hành, hoàn thiện và kết thúc. Khi Shell sẵn sàng tiếp nhận dòng lệnh của người dùng, một dấu nhắc Shell (còn gọi là dấu nhắc nhập lệnh) xuất hiện trên màn hình.
Linux có hai loại Shell phổ biến là: C-Shell (dấu nhắc %), Bourne-Shell (dấu nhắc $) và một số Shell phát triển từ các Shell nói trên (chẳng hạn, TcShell-tcsh với dấu nhắc ngầm định > phát triển từ C-Shell và GNU Bourne-bash với dấu nhắc ngầm định > phát triển từ C-Shell và GNU Bourne-bash với dấu nhắc bash # phát triển từ Brourne-Shell).
Dấu mời phân biệt Shell nói trên không phải hoàn toàn rõ ràng do Linux cho phép người dùng thay đổi lại dấu nhắc Shell nhờ việc thay giá trị các biến môi trường PS1 và PS2.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: