Hệ điều hành được viết trên ngôn ngữ bậc cao; bởi vậy, rất dễ đọc dễ hiểu, dễ thay đổi để cài đặt trên loại máy tính mới (tính dễ mang chuyển, như đã nói).
Có giao diện người dùng đơn giản đủ năng lực cung cấp các dịch vụ mà người dùng mong muốn (so sánh với các hệ điều hành có từ trước đó thì giao diện của UNIX là một tiến bộ vượt bậc).
Thỏa mãn nguyên tắc xây dựng các chương trình phức tạp từ những chương trình đơn giản hơn: Trước hết có các mô-đun cơ bản nhất của nhân sau đó phát triển để có hệ điều hành.
Sử dụng duy nhất một hệ thống File có cấu trúc cho phép dễ dàng bảo quản và sử dụng hiệu quả.
Sử dụng phổ biến một dạng đơn giản trình bày nội tại của File như một dòng các byte cho phép dễ dàng khi viết các chương trình ứng dụng truy nhập, thao tác với các dữ liệu trong File.
Có kết nối đơn giản với thiết bị ngoại vi: Các file thiết bị đã được đặt sẵn trong hệ thống file tại ra một kết nối đơn giản giữa chương trình người dùng với các thiết bị ngoại vi.
Là hệ điều hành đa người dùng, đa quá trình, trong đó mỗi người dùng có thể thực hiện các quá trình của mình một cách độc lập.
Mọi thao tác vào – ra của hệ điều hành được thực hiện trên hệ thống File: Mỗi thiết bị vào ra tương ứng với một File. Chương trình người dùng làm việc với file đó mà không cần quan tâm cụ thể tên file đó được đặt cho thiết bị nào trong hệ thống.
Che khuất cấu trúc máy đối với người dùng, đảm bảo tính độc lập tương đối của chương trình đối với dữ liệu và phần cứng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người lập trình khi viết các chương trình chạy UNIX với các điều kiện phần cứng hoàn toàn khác biệt nhau.