Nếu bạn đang làm việc với một trình soạn thảo văn bản, mỗi lần bạn muốn lưu tài liệu phải nhấn vào nút SAVE. Trong cơ sở dữ liệu, câu lệnh COMMIT sẽ làm điều đó. Mỗi lần câu lệnh COMMIT được thực hiện thì mọi thay đổi tạo thành dữ liệu và được lưu trong nhật ký cơ sở dữ liệu
Tương tự, khi bạn làm việc với một tài liệu văn bản, đôi khi bạn thấy ở dưới góc phải màn hình có một thông điệp ngắn “auto-saving”. Trong cơ sở dữ liệu, điều này được thực hiện bởi lệnh UPDATE, INSERT và DELETE
Nhật ký cơ sở dữ liệu được lưu trữ trên đĩa cứng và được dùng ghi lại những hành động của những giao dịch. Nếu hệ thống hay cơ sở dữ liệu bị hư hại, chúng được dùng để lấy lại những giao dịch đã được gởi đi trong suốt quá trình khôi phục dữ liệu.
Ví dụ, khi câu lệnh UPDATE được thực hiện, những trang cho những dòng câu lệnh sẽ được lưu trong vùng đệm dữ liệu (bộ nhớ). Những thay đổi, cập nhật sẽ được thể hiện trong vùng đệm dữ liệu, những giá trị cũ và mới sẽ được lưu trữ trong những tập tin nhật ký cơ sở dữ liệu, đôi khi tức thời, đôi khi một vùng đệm nhật ký đầy. Nếu câu lệnh COMMIT được thi hành sau câu lệnh UPDATE thì những giá trị cũ và mới sẽ được cất trong những tập tin nhật ký ngay lập tức. Xử lý này cũng được lập lại tương tự cho câu lệnh SQL khác truy xuất đến cơ sở dữ liệu.
Có hai kiểu nhật ký:
Nhật ký sơ cấp: được cấp phát sẵn và số nhật ký sơ cấp sẵn sàng được xác định bởi tham biến db cfg LOGPRIMARY
Nhật ký thứ cấp: phần nhật ký thứ cấp này được DB2 cấp phát động khi cần. Số nhật ký thứ cấp được gán giá trị bởi tham biến db cfg LOGSECOND. Việc cấp phát động một nhật ký động sẽ gây ra sự lãng phí. Vì vậy, nhật ký thứ cấp sẽ được xóa khi tất cả kết nối đến cơ sở dữ liệu đã bị ngắt
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: